
Kodak và Fujifilm là hai cái tên đã nằm sâu trong tâm trí của người dùng máy ảnh phim. Cả hai đã thống lĩnh và nắm độc quyền thị trường truyền thống của mình: Kodak bán phim ở Mỹ, Fujifilm ở Nhật Bản. Trong khi Kodak đã được đưa vào “bảo tàng lịch sử” cách đây hơn một thập niên thì Fujifilm hiện là hãng gia công dược hàng đầu thế giới.
Thử thách của chuyển đổi số
Thành lập năm 1888, Kodak giành được thị trường vững chắc trong ngành phim ảnh bằng các loại máy ảnh giá rẻ và các sản phẩm liên quan khác như phim chụp ảnh nghiệp dư và nhiếp ảnh chuyên nghiệp, hóa chất và giấy in hình. Trên thực tế, Kodak từng là “hãng sản xuất phim lớn nhất thế giới cho máy ảnh và ngành công nghiệp điện ảnh” – theo tờ Baltimore Sun. Nhưng khi máy ảnh kỹ thuật số bắt đầu thâm nhập thị trường, doanh số của Kodak đã sụt giảm mạnh mẽ và là dấu chấm hết của hãng đầu năm 2012.
Nhưng rất ít người biết rằng Kodak lại là hãng đầu tiên chế tạo máy ảnh kỹ thuật số vào năm 1975. Chiếc máy ảnh to đùng như cái lò nướng bánh mì, mất 20 giây để chụp, nhưng chất lượng ảnh lại thấp và phải kết nối hết sức phức tạp với màn hình tivi để xe. Phát minh này rõ ràng có thể thay đổi thế giới từ sớm. Thế nhưng, tiếc là Kodak đã không có chính sách thích hợp. Họ phát minh ra công nghệ, nhưng lại không quyết tâm đầu tư.
Và đó không phải là sai lầm chiến lược duy nhất. Trong giai đoạn máy ảnh kỹ thuật số sáp nhập với smartphone, người ta không còn in ảnh ra xem nữa mà đưa thẳng lên các mạng xã hội.
Trước khi Mark Zuckerberg đặt những nền tảng cho Facebook, Kodak đã mua lại trang mạng chia sẻ hình ảnh có tên là Ofoto. Hãng phim chụp ảnh Mỹ có slogan nổi tiếng “Chia sẻ những kỷ niệm, chia sẻ cuộc sống”. Nhưng họ lại không làm như vậy, Kodak đã nỗ lực sử dụng Ofoto để thu hút người dùng in hình kỹ thuật số đã chụp. Ofoto được bán lại vào tháng 4-2012 với giá chỉ 25 triệu đô – cùng lúc đó là Facebook bỏ ra 1 tỉ đô để mua Instagram.
Nhân viên cũ của Kodak đã từng tiếc nuối là nếu như Ofoto được chuyển thành Kodak Moments để chia sẻ hình ảnh cá nhân, kết nối tin tức và thông tin – như Facebook đã làm – thì số phận của họ đã khác. Kodak đã ngần ngại thay đổi trước những thời điểm chuyển tiếp lớn lao của xã hội thông tin và kỹ thuật số, và lịch sử đã dành cho họ trong một góc ở bảo tàng.
Ở bên kia đại dương, Fujifilm cũng phải chật vật xoay xở. Fujifilm đã nhận thức được xu hướng mới của máy ảnh kỹ thuật số khi doanh số mảng phim ảnh sụt giảm 60% trong thập niên 2000-2010 – theo The Economist. Fuji đã tích cực tìm kiếm các cơ hội mới, tạo ra các dòng sản phẩm mới.
Vẫn duy trì mảng phim chụp, nhưng Fujifilm đã bổ sung các khoản đầu tư mới và thành lập các mảng kinh doanh mới. Họ đã đầu tư 4 tỉ đô la cho sản xuất phim quang học cho màn hình LCD vào năm 2000. Quyết định này đã được đền đáp xứng đáng: Fujifilm thống trị 100% thị phần.
Fujifilm lập liên doanh với hãng Xerox của Mỹ để sản xuất máy photocopy. Nhưng một số khách muốn in các sản phẩm trên áo thun hoặc chất liệu khác. Fuji Xerox đáp ứng với dòng máy in Xerox Phaser®6270. Đáng tiếc, liên doanh Fuji Xerox đã “đường ai nấy đi” vào cuối năm 2021 sau khi có những bất đồng.
Manny Almeida, chủ tịch bộ phận hình ảnh và tổng giám đốc bộ phận thiết bị quang học, Fujifilm Bắc Mỹ cho biết: “Thị trường in ấn đã thay đổi, thị trường phim chụp ảnh chiếm tỉ lệ nhỏ nhoi và tiếp tục phân rã, chúng tôi biết mình là ai và phải làm gì để thành công khi thế giới xung quanh thay đổi”.
Fujifilm không ngừng cải tiến các máy ảnh kỹ thuật số bởi họ biết rằng họ cũng sẽ trở thành một Kodak thứ hai nếu không tìm cách tồn tại và nắm bắt những cơ hội phát triển mới.

Hình mẫu thành công mới
Fujifilm Holdings đang đặt mục tiêu trở thành nhà cung cấp dịch vụ gia công dược cho các tập đoàn dược khổng lồ trong vài năm tới. Hãng đang có kế hoạch chi 600 tỉ yen (5,25 tỉ đô la) để đứng vững trên thị trường được dự báo có những thay đổi nhanh chóng trong tương lai gần. Cuối tháng 6-2021, Fujifilm quyết định tăng thêm 90 tỉ yen nhằm trở thành hình mẫu thành công trong ngành công nghiệp gia công dược – tương tự như hãng chip TSMC của Đài Loan trong ngành gia công chip do các hãng khác thiết kế.
Giống như ngành công nghiệp chip, các hãng dược lớn đang có xu hướng giao một phần hoặc toàn bộ quá trình phát triển và sản xuất cho các nhà thầu lớn. Một yếu tố chính thúc đẩy xu hướng này là sự đa dạng ngày càng tăng của các phương pháp điều trị và công nghệ sản xuất thuốc.
Khi các phương pháp điều trị mới như thuốc kháng thể, liệu pháp tế bào và liệu pháp gien được phổ biến rộng rãi, các công ty dược phẩm phải đối mặt với những thách thức khó khăn hơn nhiều trong việc phát triển và tiếp thị các loại thuốc mới.
Một yếu tố khác là cần đầu tư rất lớn để phát triển và sản xuất dược phẩm sinh học – những loại thuốc có nguồn gốc từ các quá trình sinh học, chẳng hạn như các sản phẩm máu. Điều này đã mở ra cánh cửa cho các hãng gia công dược (CDMO) vốn là mục tiêu chính của Fujifilm.
Phát triển và đưa ra thị trường loại thuốc mới thường mất khoảng 10 năm và có nguy cơ thua lỗ rất lớn. Hiệu quả kinh tế buộc các hãng dược phải thuê gia công. Hãng dược sẽ tập trung nghiên cứu các loại biệt dược mới trong phòng thí nghiệm. Các bước phát triển kế tiếp như phát triển dòng tế bào, thử nghiệm lâm sàng và sản xuất thương mại dành cho các hãng dịch vụ gia công. “Chúng tôi muốn tập trung nguồn lực quản lý của mình vào việc khám phá và tiếp thị thuốc”, CEO một hãng dược lớn của Nhật Bản nói với Nikkei Asia.
Nhà phân tích cấp cao Takahiro Mori thuộc Mizuho Securities dự doán mảng gia công trong ngành dược phẩm sinh học sẽ tăng trưởng ổn định. Ông nói rằng: “Các hãng dược lớn ít ưu tiên đầu tư vào công nghệ sản xuất phức tạp và rườm rà cho những loại thuốc như vậy”.
Trên thực tế, các hãng dược lớn đang bán bớt mảng sản xuất thuốc. Tập đoàn dược phẩm khổng lồ Novartis của Thụy Sĩ đã bán hãng sản xuất các liệu pháp gien tại Mỹ hãng gia dược AGC tháng 8-2020. Trước đó hai tháng, hãng dược AstraZeneca của Anh đã bán nhà máy ở Mỹ cho AGC.
Hãng nghiên cứu Research & Markets dự báo thị trường gia công dược sẽ tăng trưởng 50% lên 241 tỉ đô la vào năm 2024, so với năm 2020. Thị trường hiện đang được thống trị bởi tập đoàn Lonza Group của Thụy Sĩ, Boehringer Ingelheim của Đức và Samsung Biologics của Hàn Quốc. Bộ ba này kiểm soát khoảng 70% thị trường toàn cầu về năng lực sản xuất. Đặc biệt, Samsung Biologics chi không tiếc tiền cho các hoạt động mở rộng. Được đầu tư 1,4 tỉ đô la, nhà máy dược sinh học mới của tập đoàn này sẽ khai trương đầu năm 2022 này, nâng công suất của hãng thêm 70%.
Gia nhập cuộc đua có phần muộn màng, nhưng Fujifilm hy vọng rằng công nghệ mới sẽ giúp hãng bắt kịp các đối thủ. Fujifilm có kế hoạch giới thiệu dây chuyền sản xuất mới có thể tạo ra các kháng thể có độ tinh khiết cao tại nhà máy của hãng ở Anh. Fujifilm mô tả hệ thống này là “cơ sở xử lý liên tục được và được tích hợp đầy đủ”.
Phương pháp xử lý liên tục sẽ giúp giảm chi phí nuôi cấy tế bào theo từng lô nhỏ thuông thường, nhưng cho chất lượng cao hơn và kết quả đồng đều hơn. Bởi vì sản xuất liên tục, hệ thống không yêu cầu bể chứa lớn, giảm 70% chi phí đầu tư và 30% chi phí sản xuất. Fujifilm cho biết phương pháp này cho phép thu được lượng kháng thể cao gấp ba lần so với phương pháp thông thường.
Tuy nhiên, sản xuất liên tục đòi hỏi sự kiểm soát chính xác cao đối với toàn bộ quá trình nuôi cấy tế bào, cũng như công nghệ và thiết bị tinh chế phức tạp. Phương pháp này cũng đòi hỏi lượng rất lớn môi trường nuôi cấy – gấp 30-40 lần so với phương pháp nuôi cấy theo lô. Những thách thức về công nghệ và chi phí này đã cản trở các hãng dược sinh học sử dụng rộng rãi phương pháp mới. Fujifilm đã tận dụng khả năng thiết kế của mình trong lĩnh vực sản xuất phim và các lĩnh vực kinh doanh khác để phát triển thiết bị mới cho hệ thống sản xuất liên tục của mình.
Takatoshi Ishikawa, phó chủ tịch điều hành cấp cao phụ trách bộ phận Bio CDMO của Fujifilm, gọi hệ thống sản xuất mới của Fujifilm là “yếu tố thay đổi cuộc chơi” và giúp hãng vươn lên đứng đầu trong ngành gia công dược. Fujifilm đang đàm phán với các hãng dược về công nghệ mới.
Fujifilm đặt mục tiêu nâng doanh số bán hàng trong mảng gia công dược của mình lên 200 tỉ yen vào tháng 3-2025, gấp đôi con số của năm kết thúc vào tháng 3-2021 và đạt mức tăng trưởng doanh thu hàng năm là 20% trong những năm tiếp theo.
Tham gia cuộc chiến chống Covid
Cuối tháng 2-2020, không khí tại trụ sở Tập đoàn Fujifilm ở Tokyo hết sức khẩn trương. Ban lãnh đạo và toàn thể nhân viên Fujifilm đang thực hiện một sứ mệnh chưa từng có trong lịch sử 86 năm thành lập – góp sức cùng ngành y tế trong cuộc chiến chống lại Covid-19. Thuốc trị cúm Avigan của Fujifilm được chính phủ phê duyệt sử dụng khẩn cấp trong điều trị Covid-19 ở các bệnh nhân có triệu chứng nhẹ đến trung bình.
Avigan có chứa hoạt chất kháng virus favipiravir. Các thuốc điều trị cúm khác ức chế virus lây lan bằng cách ngăn chặn kháng nguyên neuraminidase của virus. Ngược lại, favipiravir là hoạt chất duy nhất ức chế trực tiếp phân tử polymerase trong bộ gen ARN của virus để ngăn chặn virus sao chép, từ đó virus không thể lây lan được nữa.
Năm 1990, khi bắt đầu hợp tác với giáo sự virus học Kimiyasu Shiraki, hãng dược Toyama Chemical – công ty con Fujifilm – dự kiến nghiên cứu một hợp chất kháng virus mới điều trị mụn rộp. Tám năm sau, Shiraki phát hiện hợp chất có tiềm năng trị bệnh cúm. Từ đó thuốc Favipiravir ra đời.
Avigan được cả thể giới tranh giành đặt hàng. Những tưởng viên thuốc ra đời 30 năm trước có được tương lai tươi sáng thời đại dịch. Thế nhưng tháng 11-2021, Fujifilm đã bị dội một gáo nước lạnh khi đối tác Appili Therapeutics ở Canada nói rằng các thử nghiệm lâm sàng giai đoạn 3 ở Mỹ, Mexico và Brazil cho thấy Avigan đã không chứng tỏ được “hiệu quả hồi phục chắc chắn”. Tuy vậy, hãng dược Canada nói việc phân tích dữ liệu vẫn sẽ tiếp tục.
Đóng góp cho cuộc chiến chống Covid không chỉ dừng ở thuốc Avigan. Fujifilm đang phát triển thiết bị mới có thể giám định viêm phổi do Covid bằng cách sử dụng phim chụp.
Các hoạt động liên quan đến mảng chăm sóc sức khỏe và gia công dược sẽ góp phần mang lại doanh số 10 tỉ đô la mỗi năm, tức gần 50% tổng doanh số toàn cầu của Fujifilm trong vài năm tới. Nhưng đó không phải là kết quả một sớm một chiều mà là quá trình đầu tư và chuyển mình liên tục của Fujifilm dưới thời của CEO Shigetaka Komori khi ông bắt đầu nắm quyền từ năm 2003.
Ricky Hồ / BSA Media
Khi hãng bột ngọt Ajinomoto trở thành ngôi sao mới ngành chip