Xây dựng lộ trình phát triển bền vững cho doanh nghiệp

Ông Tô Thanh Sơn, Giám đốc Phát triển bền vững của tổ chức SGS Việt Nam

Đầu tháng 3-2025, Viện CFA* đã không dùng cụm ESG (môi trường, xã hội và quản trị) nữa mà thay bằng cụm “phát triển bền vững”. Tuy nhiên, không có nghĩa là ESG biến mất, mà được tích hợp sâu hơn vào quá trình phát triển bền vững của doanh nghiệp và xã hội.

Ông Tô Thanh Sơn, Giám đốc Phát triển bền vững của tổ chức SGS Việt Nam, đã chia sẻ về hành trình phát triển bền vững mới, trong đó có yếu tố xã hội (S) như bình đẳng giới tại nơi làm việc.

Khi ESG bị “dẹp”, phản ứng lúc đó của cộng đồng tư vấn ESG và doanh nghiệp đang làm ESG như thế nào?

Tôi tin rằng sự thay đổi này nhằm phản ánh một cách toàn diện hơn về trách nhiệm xã hội và môi trường của doanh nghiệp, tránh việc sử dụng ESG như một công cụ tiếp thị mà thiếu hành động thực chất.​

Nhiều chuyên gia tư vấn nói rằng đây là thuật ngữ không mới. Nhưng việc chuyển đổi thuật ngữ giúp mở rộng phạm vi và tầm nhìn, không chỉ tập trung vào các yếu tố môi trường, xã hội và quản trị mà còn bao gồm các khía cạnh khác của phát triển bền vững.​

Các hãng tư vấn và tổ chức thẩm tra đã nhanh chóng cập nhật dịch vụ và tài liệu đào tạo để phù hợp với thay đổi này, đảm bảo khách hàng nhận được thông tin và hướng dẫn mới nhất về phát triển bền vững.​

Còn với doanh nghiệp đang thực hiện ESG, có hai việc cần làm. Đầu tiên là tái định hướng chiến lược, nhiều doanh nghiệp xem đây là cơ hội để rà soát và mở rộng chiến lược bền vững của mình, tích hợp sâu hơn các mục tiêu phát triển bền vững (17 mục tiêu phát triển bền vững của Liên hiệp quốc) vào hoạt động kinh doanh.​ Kế đến là tăng cường tính minh bạch. Việc chuyển đổi thuật ngữ thúc đẩy doanh nghiệp cải thiện báo cáo và công bố thông tin liên quan đến phát triển bền vững, đáp ứng kỳ vọng ngày càng cao của nhà đầu tư và công chúng.​

Tuy nhiên, cũng có một vài thách thức. Một là, vài doanh nghiệp, đặc biệt là doanh nghiệp nhỏ và vừa, cần thời gian để hiểu rõ và áp dụng các khái niệm mới liên quan đến phát triển bền vững.​ Hai là, việc chuyển đổi thuật ngữ đòi hỏi sự điều chỉnh trong các tiêu chuẩn báo cáo và đánh giá, gây ra một số khó khăn ban đầu cho doanh nghiệp trong việc tuân thủ và báo cáo.​

Điều này có nghĩa là chặng đường phát triển bền vững trong tương lai sẽ như thế nào, nhất là tại Việt Nam. Một số nơi mới làm quen với ESG, nhiều nơi chưa biết phải ưu tiên yếu tố E, S hay G trước? Có thể giữ bài bản ESG cũ mà chúng ta đang làm để thực hiện phát triển bền vững?

Việt Nam có thể và nên giữ khung ESG như một công cụ đo lường, nhưng cần mở rộng tư duy và chiến lược để phù hợp với mục tiêu phát triển bền vững dài hạn. ESG vẫn là nền tảng quan trọng giúp doanh nghiệp xác định rủi ro, nhưng chỉ tập trung vào ESG mà thiếu hành động thực tiễn sẽ không đủ.

Tôi tin rằng, đầu tiên, chúng ta cần ưu tiên yếu tố phù hợp với ngành và thực tiễn doanh nghiệp. Chẳng hạn, doanh nghiệp sản xuất cần tập trung vào tối ưu hóa sử dụng năng lượng, nâng cao hiệu suất, giảm phát thải, sử dụng tài nguyên hiệu quả. Ngành dịch vụ, tài chính cần tăng cường quản trị minh bạch, thúc đẩy công bằng xã hội, tạo ra các nguồn quỹ đầu tư đáng kể để thúc phát triển bền vững và khuyến khích áp dụng.

Kế đến xây dựng lộ trình phát triển bền vững thay vì chỉ báo cáo ESG. Không chỉ công bố số liệu ESG định kỳ, mà phải cam kết cải tiến liên tục, để tiến tới phat triển bền vững. Áp dụng công nghệ xanh, năng lượng tái tạo, mô hình kinh tế tuần hoàn, giảm phát thải khí nhà kính để hiện thực hóa cam kết.

Cuối cùng là khung chính sách hỗ trợ của chính phủ. Đó là việc ban hành tiêu chuẩn quốc gia về phát triển bền vững, đồng bộ với các quy định quốc tế. Đồng thời là hỗ trợ tài chính, khuyến khích doanh nghiệp thực hiện phát triển bền vững, thay vì chỉ đáp ứng yêu cầu báo cáo ESG.

Tôi tin rằng chúng ta cần có lộ trình ngắn hạn trong vòng một năm, trung hạn từ 1-3 năm và dài hạn từ 3-5 năm để làm quen với cái mới và thực hành các yếu tố phát triển bền vững. Đồng thời, doanh nghiệp cần tận dụng các ưu đãi của chính phủ và các tổ chức quốc tế như Liên hiệp quốc, Liên hiệp châu Âu (EU), Ngân hàng Thế giới (WB), Ngân hàng Phát triển Á châu (ADB)… với các ưu đãi về thuế, các chương trình tài chính xanh hoặc chương trình đào tạo giúp doanh nghiệp triển khai phát triển bền vững hiệu quả hơn.

Bình đẳng giới tại nơi làm việc (WGE) là một yếu tố quan trọng trong quá trình phát triển bền vững. Chúng ta nhìn nhận vấn đề này như thế nào, ở góc cạnh doanh nghiệp, cộng đồng và mức độ rộng lớn hơn là nền kinh tế?

Bình đẳng giới không chỉ là một khẩu hiệu hay nguyên tắc đạo đức, mà còn là động lực thúc đẩy phát triển bền vững, phù hợp với các quy tắc ứng xử và các tiêu chuẩn quốc tế hiện nay, giúp doanh nghiệp vươn xa, cộng đồng phát triển và nền kinh tế tăng trưởng mạnh mẽ.

Doanh nghiệp cần tận dụng sức mạnh từ bình đẳng giới. Bởi điều này tạo ra hiệu suất vượt trội, giữ chân và thu hút nhân tài, mở rộng cơ hội thị trường và sức cạnh tranh trên thị trường quốc tế.

Còn với cộng đồng thì WGE tạo nền tảng cho một xã hội phát triển.hi phụ nữ có thu nhập công bằng, họ đầu tư nhiều hơn vào giáo dục và sức khỏe cho thế hệ sau, góp phần nâng cao chất lượng cuộc sống. Công việc bình đẳng giúp phụ nữ tự chủ tài chính, giảm phụ thuộc và hạn chế nguy cơ bạo lực gia đình, thúc đẩy hạnh phúc gia đình và cộng đồng văn minh hơn. Bình đẳng giới thay đổi tư duy, xóa bỏ định kiến và thúc đẩy một cộng đồng văn minh hơn.

Ở quy mô nền kinh tế, WGE là động lực cho tăng trưởng bền vững.

Nếu thu hẹp khoảng cách giới trong lao động, GDP toàn cầu có thể tăng thêm 28.000 tỷ USD vào năm 2025, theo McKinsey. Một lực lượng lao động đa dạng giúp tối ưu hiệu suất làm việc và cải thiện hiệu quả kinh tế. WGE còn có thể nâng cao vị thế quốc gia. C Các nước có chính sách bình đẳng giới mạnh mẽ thường ổn định hơn, thu hút đầu tư tốt hơn và có nền kinh tế phát triển bền vững.

Một vài nước châu Á như Nhật Bản đang có tỷ lệ lãnh đạo nữ rất thấp, chỉ vài phần trăm, và nay đặt mục tiêu đến năm 2030 là 30%. Theo báo cáo của Grant Thornton năm 2023, Việt Nam có tỷ lệ nữ giới lãnh đạo doanh nghiệp ở mức khá cao so với khu vực và thế giới. Một vài số liệu nói khoảng 23% lãnh đạo doanh nghiệp Việt Nam là nữ. Việt Nam đã đi trước trong WGE. Vậy bây giờ, chúng ta đi thong thả, giữ tốc độ như cũ hay tăng tốc?

Nếu giữ nguyên tốc độ,chúng ta sẽ tiếp tục tiến lên nhưng có nguy cơ bị các nước khác bắt kịp.

Nếu tăng tốc vừa phải, chúng ta có thể củng cố thành quả, tạo lộ trình rõ ràng, tập trung vào chính sách hỗ trợ nữ lãnh đạo.

Còn nếu tăng tốc mạnh mẽ trong WGE, mục tiêu trên 30% nữ lãnh đạo vào năm 2030 sẽ giúp Việt Nam nâng cao sức cạnh tranh toàn cầu, và không để đối thủ bắt kịp.

Ở mức độ doanh nghiệp, doanh nghiệp có lãnh đạo đa dạng quản trị rủi ro tốt hơn, sáng tạo hơn và hiệu suất tài chính cao hơn. Đó còn yếu tố thu hút đầu tư, bởi hiện các quỹ đầu tư ESG, hay các quỹ xanh sau này, đang ưu tiên và thúc đẩy bình đẳng giới, những quốc gia có tỷ lệ nữ lãnh đạo cao sẽ được ưu tiên hơn.

Song Hảo thực hiện